Thứ Ba, 15 tháng 8, 2023

NHỮNG VẦN THƠ VỀ CHA MẸ




TƯỞNG NIỆM 

Mùng Mười tháng Mười huý kỵ cha

Bốn ba năm ấy, người đi xa

Năm tám tuổi xuân trong vất vả

Trí lo trị quốc, trọng tề gia

Sống chẳng cho mình, cho tất cả

Việc chung cách mạng với việc nhà

Trở về cõi Phật lòng thanh thản

Để niềm thương nhớ mãi về Cha !

7/10 



VỀ NHÀ

QUẶN NHỚ MẸ TA

Bao năm mưu sống phương xa

Quê hương mới trở lại nhà Xuân nay

Trào dâng kỷ niệm vơi đầy 

Quặn lòng nhớ mẹ tháng ngày nơi đây 

***

Mẹ ta vóc hạc, hao gầy 

Gian lao, đọng lại bàn tay chai sần

Ruộng đồng, níu lệch đôi chân

Nắng mưa, bạc phếch áo quần đen thâm

Thương con phiêu bạt xa gần

Mắt mờ, bởi lệ bao lần đẫm khăn

Chiều chiều, đăm đắm ngõ sân

Lặng yên, đơn bóng, bần thần chờ con

Nhớ thương dạ những héo mòn

Đợi chờ khắc khoải, lưng còm, thân ve

Phòng đơn, giường mẹ chiếu tre

Bao đêm trằn trọc, tái tê nỗi sầu 

Tường vôi, vương đỏ cốt trầu 

Đêm nhai nỗi nhớ, ngày đau nguyên còn 

Cả đời, chưa được miếng ngon 

Chỉ quen khoai, sắn, chuối non góc vườn 

Tảo tần, gom nhặt yêu thương 

Khổ lao mẹ nhận, sướng nhường phần con…

***

Chốn xưa đầy ắp vui buồn 

Cúi đầu, thắp một nén hương dâng người 

Hãy yên lòng nhé, mẹ ơi !

Trong con có mẹ, cả đời không quên!

10/10



MẸ ƠI!

Hơn hai mươi năm vắng mẹ rồi

Lòng con nỗi nhớ chẳng hề nguôi

Đi đâu về cửa như muốn gọi

Mẹ ơi …

Như mẹ vẫn trên đời

***

Bữa ăn chẳng còn mẹ để mời

Trầu cau để héo chẳng ai sơi

Miếng ngon vắng mẹ, con như nghẹn

Nuốt lệ vào tim những ngậm ngùi

***

Con đi đây đó bốn phương trời

Nỗi nhớ trong  lòng chẳng hề vơi

Cô đơn

Đau khổ

Trong hoạn nạn

Vẫn tiếng xé lòng gọi:

Mẹ ơi !

8/5/2023

Ngày Hiền mẫu 


VU LAN NHỚ MẸ !

Vu Lan này

con nhớ mẹ, mẹ ơi

Nhớ thời lầm than

bát cơm chan mồ hôi mẹ ...

Sao ngày ấy con ngây ngô đến thế

Cái bụng đói ăn

ôm chân mẹ con đòi

Hạt lúa mẹ làm...

Nhưng ăn chỉ sắn khoai

Thèm cơm trắng

Mẹ thương con ...

tiếng thở dài nén lặng

Con lớn lên ...

Những trắng đêm mẹ thức

Với bóng đèn khuya lặng lẽ một mình

Vá áo cho con, vá nhọc nhằn cơ cực

Để mai con vào đời, với áo lành của mẹ trên lưng

Mẹ thế đó

Năm chị em còn nhỏ

Bố làm thuê, đốt gạch, nung lò 

Thi thoảng mới về, tay nải ít sắn khô...     

***    

Năm tháng qua

Dẫu cố quên lại càng thêm nhớ 

Hình bóng mẹ suốt đời lam lũ

Con vẫn cứ vô tư

Rúc nách mẹ đêm đêm

Miệng ngậm vú, tay sờ...

Nuôi con lớn thành người, mẹ xương loãng, sữa khô ...

Vun đắp cho con như vun đắp cơ đồ

                 * * *

Con lớn lên và vào bộ đội

Canh cánh bên lòng-Nỗi nhớ mẹ khôn nguôi

Mắt mẹ lệ rơi...

Quảng Trị, Cổ Thành xưa-Mẹ tưởng con đã mãi mãi đi rồi...

Ngày con trở về

Mẹ cười trong nước mắt

Giữa ban ngày sự thật vẫn như mơ

Ánh mắt mẹ hân hoan còn đọng mãi đến giờ

***

Con lại đi !

Kiếm tìm chi những mong ước dại khờ

Dù đã lớn khôn, có việc làm, có vợ

Mẹ vẫn trong đèn. Đêm lặng im đợi cửa

Trong lòng mẹ già, con vẫn cứ trẻ thơ                                     

Con có đâu ngờ

Một ngày kía mẹ bỗng ra đi

Lặng lẽ

bình yên

không lời dặn lại gì!

Mẹ thế đấy 

Sống yêu thương là vậy

Thanh thản về trời, như trái chín cây

Để lại nhớ thương ngày mỗi thêm dày

***

Vu Lan năm nay

Ngày báo hiếu

Tuy ở nơi xa chắc lòng mẹ hiểu

Nỗi lòng con muốn nói bao điều

Nhừng bận làm mẹ buồn ...

con ân hận biết bao nhiêu

Con cúi đầu xin mẹ

Hãy tha thứ cho con!

Hỡi người mẹ kính yêu

 25/8/212                 


ÂN HẬN!

Ba tám năm mãi khôn nguôi

Mùng Mười và cũng tháng Mười Bảy Tư

Đông về, buốt giá, không mưa

Rét như cắt thịt lại vừa đầu trăng

Cha đi vào cõi vĩnh hằng

Vắng con, nội ngoại, xóm làng liệu lo...

Chống Mỹ đang lúc cam go

Thương con, đơn vi vẫn cho phép về

Ba ngày mới đến được quê

Nỗi đau như xé tái tê cõi lòng....

Còn gì đâu để mà mong

Tinh khôi nấm mộ giữa lòng đất thôi..

Vô hồn, con đào, con bơi

Như tìm đồng đội ở nơi chiến trường...

Chưa nguôi đau, phải lên đường

Viếng cha, xin mẹ ...chiến trường lại đi..

Ba tám năm … dạ khắc ghi

Ăn năn không gặp lúc đi của Người..

Cúi đầu tạ tội Cha ơi

Nỗi niềm ân hận cả đời con mang

Huý kị con thắp nén nhang

Mong Cha Mẹ dưới suối vàng thứ tha ...!

10/10

Viết trong ngày Huý kị Cha


Thanh minh 

TẢO MỘ MẸ CHA

Con về tảo mộ sáng nay

Rưng rưng mắt lệ, lòng đầy vấn vương

Tay run, thắp một nén hương

Tim đau như xé, đoạn trường tâm can

Âm, dương cách trở đôi đàng 

Vắng cha mẹ, để muôn vàn nhớ thương

Ngày còn ở mãi chiến trường

Bố đi xa, chẳng nén hương tiễn người...

Rồi khi mẹ cũng về trời 

Việc công bận, chẳng chăm Người ốm đau

***

Bây giờ cha mẹ còn đâu...

Chỉ mong còn có kiếp sau đáp đền...

3/3/ Thanh minh

Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2023

ĐẤT ĐỒNG VÁ NHỰA

 












“Cứ là dật gấu, đắp chân..”

Nắng bụi. Mưa xối, một lần đi tong !

Đường nhựa mà vá đất đồng 

Đông Lào như thế, sao không mắc cười !

“Tạo công việc cho bao người 

Chi phí vật liệu, đồng thời tiền lương…”

Máy lu, củi, nhựa, vá đường 

Tiền thuế dân góp, chuyện thường xưa nay

Di tu, dưỡng lộ kiểu này 

Tốt, xấu mặc kệ, tiền thầy cứ xơi ! 

Dã Tràng xe cát biển khơi

Tiếu lâm, ngày tháng trò đời diễn chơi.! 

21/7/2023

Thứ Bảy, 15 tháng 7, 2023

TRÔNG TRĂNG MÀ NHỚ CHỊ HẰNG
















Nghĩ mà thương cho cái chị Hằng. 

Chăn kiến, ngồi buồn nhớ cung trăng. 

Bỏ Cuội, bỏ trâu, vì “quy hoạch”.

Bởi lá đa dài? Bởi tài năng?

Ngẫm những ai người luôn chăm bẵm 

Nhử mồi bằng ghế có hay chăng?

Bị người ”nâng đỡ không trong sáng”

Ngẫm lại càng thương cái chị Hằng

15/7/2023


Thứ Ba, 4 tháng 7, 2023

ĐÂU LÀ BẢN GỐC









Tôi đọc đề thi 2016, xem họ bình và ... ngứa mồm nói tí :

"Ôi tiếng Việt như đất cày, như lụa"

Trộm nghĩ đây chỉ là một trong những câu thơ hay của bài thơ hay mà bác Vũ viết quá hay, từ đắt thế là cùng, rõ đến thế, hình tượng văn học hay đến thế ! Quả là "Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam". 

Tiếng Việt, ngôn ngữ Việt còn sâu, còn cay còn thâm thuý hơn Tàu nữa là ... Khi thì  mộc mạc, thật thà, chân chất, không chau chuốt khách sáo xu nịnh. Ví lởm khởm, nhấp nhô như đất cày, nhưng vẫn say nồng hương đất quê ta, dù cho sự thật có mất lòng, trung ngôn tuy có nghịch nhĩ. Nhưng lại có khi "lời nói không mất tiền mua.." Nên lựa lời mà nói, nói ở tận đây mà chết mãi cây Hà Nội kia, nói thế này bẻ xuôi cũng được, nói ngược cũng xong. Tưởng ngọt ngào mà lời còn cay hơn ớt đó, nhưng vẫn êm tai nhẹ nhàng. Người Việt là người duy tình mà. Ngôn ngữ từ đó cũng biến thiên, khen hết từ, ghét xúc đất đổ đi.

 Nhưng hơn tất cả, trên tất cả, tiếng Việt là tiếng của ông cha, tiếng của chúng ta, nó đúc kết chắt chịu từ lao động để sống, đấu tranh, để tồn tại. Chúng ta đấu tranh để gìn giữ tiếng Việt và sự trong sáng của tiếng nói ông cha, mặc cho nghìn năm phong kiến Phương Bắc đô hộ, chúng sát phu dâm phụ, xoá lịch sử, bỏ chữ viết, định đồng hóa một dân tộc, làm mất đi tiếng nói của dân tộc Lạc Hồng. Nhưng tiếng Việt qua thăng trầm, gian khổ, cơ cực và qua tàn phá của kẻ thù vẫn trong sáng, đầy yêu thương nhân ái, nhưng cũng rõ mặt bạn thù, kẻ tốt người xấu, để đối nhân xử thế.

Tiếng Việt từ đó mà hình thành theo nhân cách riêng có của người Việt, không thiên lộn, nói một đàng làm một nẻo, nói hay làm đểu như Tàu...Còn khi yêu quí nhau, dành lời yêu thương cho nhau thì lại mềm mại, mịn màng như lụa, ngôn từ trong sáng, âm tiết nhẹ nhàng như giót mật vào tai

Ôi ! Cả bài thơ của bác Vũ đã thể hiện vằng vặc như sao Khuê... không như hiểu như cái ông gì đó bình, sửa thơ của bác Vũ. Mà sao ông không sửa " Ôi tiếng Việt như xa tanh, như lụa " cho nó chết tiệt cái thăng hoa của thơ ca đi nhỉ !

Nguyên tác dưới đây:

TIẾNG VIỆT 

Tiếng Mẹ gọi trong hoàng hôn khói xẫm                        

Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về                                   

Có con nghé trên lưng bùn ướt xẫm                               

Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre            

                                                                                                              

Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng                           

Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya                          

Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng                                 

Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê                           


Tiếng Cha dặn khi vun cành nhóm lửa                          

Khi hun thuyền gieo mạ lúc đưa nôi                              

Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ                                    

Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời                                     


“Đá cheo leo, trâu trèo trâu trượt…”                                  

Đi mòn đàng đứt cỏ đợi người thương                              

Đây muối mặn gừng cay lòng khế xót                               

Ta như chim trong tiếng Việt như rừng                            


Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói                               

Vầng trăng cao như cá lặn sao mờ                              

Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa   (1)                                

Óng tre ngà và mềm mại như tơ                                    


Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát                            

Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh                                     

Như gió nước không thể nào nắm bắt                                

Dấu huyền trầm bên dấu ngã chênh vênh                           

                                                                                         

Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy                                                     

Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn

Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối

Tiếng heo may gợi nhớ những con đường                               

                                                                                                

Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận  (2)                                                     

Như tiếng lòng tiếng nước của riêng ta

Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất

Nàng Mỵ Châu quỳ gối lạy cha già                                  

                                                                                           

Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng                            

Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi                              

Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán                                       

Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời


Trái đất rộng giàu sang nhiều thứ tiếng

Cao quý thâm trầm, rực rỡ vui tươi

Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người

Như tiếng sáo, như giây đàn máu nhỏ


Buồm lộng gió xô mai về trúc nhớ

Phá củi lồng vời vợi cánh chim bay

Tiếng ngẹn ngào như lời mẹ đắng cay

Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt


Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết

Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi

Như vị muối chung lòng biển mặn 

Như dòng sông thương mến chảy muôn đời


Ai thuở trước nói những lời thứ nhất

Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu 

Điều anh nói hôm nay chiều sẽ tắt

Ai người sau nói tiếp những lời yêu                           

    

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển

Nhớ quặn lòng tiếng Việt tái tê

Ai ở phía bên kia cầm súng khác

Có cùng tôi trong tiếng Việt quay về


Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ    

Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn

Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá

Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình. (3)                                                                       

 Tg : Lưu Quang Vũ          


“Tiếng yêu của những ngày xưa

 Vượt qua năm tháng bây giờ đến ta”

 Xuân Quỳnh

(1),(2),(3) là những câu nguyên bản gốc viết tay của Lưu Quang Vũ 

Sau này đã được chỉnh sửa như sau:

(1) Ôi tiếng việt như đất cày, như lụa

(2) Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng

(3) Tiếng việt ơi, tiếng việt ân tình

(Theo bản gốc do PGS-PTS Lưu Khánh Thơ.

Em gái nhà thơ Lưu Quang Vũ cung cấp)

Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

GIỖ QUÊ VÀ NHỮNG QUAN NIỆM


















Đời người là một chu trình “Sinh, lão, bệnh tử". Bởi vậy nhà ai cũng đều có giỗ. Người Việt Nam là người duy tình. Cái tình cái nghĩa nặng lắm.

Ngày húy kị ông bà, cha, mẹ. Con cháu, dù làm ăn ở đâu cũng về chịu lễ. Đó là Đạo lí làm người, cả hiếu, cả tình, nặng lòng tri ân của kẻ cháu, con. Trừ  trường hợp bất khả kháng, hay do làm ăn, cư trú nơi xa không thể về được cố quê, phải hương khói bái vọng nơi xa. 

Ngày húy kỵ! Người giàu có thì làm cỗ sang. Nhà nghèo, không có tiền, cũng có bát cơm, canh cúng ông bà, cha mẹ. Vợ chồng thành tâm, cháu con, anh em xôm tụ. Tất cả đều là hiếu đễ. Miễn là từ tấm chân tình.

Hay ho gì khi cha mẹ còn sống, không cho nổi bát canh, không mua nổi manh áo. Ốm đau, không ngơ ngó, không giặt nổi chiếc áo, cái quần... Giờ cha mẹ chết, ma to, cỗ lớn, để làm gì?

Việc thờ cúng, nhà nào, người nào cũng vậy. Dù giàu hay nghèo khó, nhà to hay nhỏ, cũng dành nơi quan trọng nhất trong nhà, là nơi để bát hương, di hình ông bà, cha mẹ làm nơi thờ cúng.

Nhưng ngày nay, giỗ chạp, nghe mà cay nơi khóe mắt...!

Thiên hạ, người giàu có, nhiều tiền của, khoe sang, làm cỗ thật to, khách mời thật đông. Sang chọe thì đi nhà hàng, ở làng thì dựng rạp. Rượu ngà ngà thì mở loa hát ca, cứ như là đám hỷ. 

Hại thay, người không có cũng đua đòi, bắt chước hoặc là phải trả nợ miệng

Việc dành nơi thờ cúng cũng vậy. Người làm ra lắm tiền, xây nhà thờ to, đúc tượng đồng lớn thờ bố mẹ cũng tốt. Nhưng đồng tiền bẩn, do tham nhũng, hối lộ… Thì có làm nhà thờ to, hoành tráng đến mấy cũng mất thiêng. 

Lại có kẻ nhà to, phòng lắm, lại để nơi thờ cúng tiên tổ, ông bà cha mẹ lên chót vót cầu thang, cứ như dấu cho khuất vậy. Mùa đông giá lạnh, mùa hè nóng vãi linh hồn, toát mồ hôi tiên tổ… thì còn đâu mát mẻ phúc nhà. 

Mồ mả là quan trọng. Ông bà, cha mẹ, người thân, khi về trời, chọn nơi an nghỉ, mồ yên mả đẹp là một trong những trách nhiệm, đạo hiếu và cũng là nỗi lo của kiếp người. 

Quan lại ngày nay, càng quan to, lại càng chơi hoành tráng! Họ tìm nơi đất vàng, chọn hướng xây mã to, xây nhà thờ lớn, mong cho mã kết, thờ thiêng, con cháu kế nghiệp làm quan đời đời.. 

Mà mã to làm gì, ngoài mục đích chiếm đất! Dân gian thường nói “To như mã Thằng ăn mày”, chứ nào đã tôn trọng gì. 

Những điều trên, nói là nói vậy thôi, âu cũng là tùy theo thực tế và quan niệm của mỗi người. 

Con và của không ai chê ít. Có con, đông con, đó là mong ước đã thành khát vọng của ông bà thân sinh ra chúng ta xưa. Thời nay, đẻ con nhiều, đã thành lạc hậu. Chỉ khi về già, bệnh tật…Dù có ở trong nhà dưỡng lão đủ đầy vật chất, nhưng chắc rằng sẽ thấm thía nỗi cô đơn!

Xưa, có gia đình lận đận sinh con nhiều bận, nhưng không nuôi được, phải đi cầu tự, nhờ thầy yểm bùa hoặc nuôi con nuôi. Rồi thì có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Thành tâm nguyện cầu, ăn ở phúc đức, trời Phật thương, thì cầu được ước thấy.

Đặt tên ư ? Tên gọi rất quan trọng với một người, vì nó gắn với chúng ta cả cuộc đời. Do vậy, tên người chẳng những ảnh hưởng đến tiền đồ sự nghiệp mà còn sẽ tác động đến tâm lý chính chủ nhân của nó. Ngày xưa ông bà quan niệm nam văn, nữ thị để phân biệt giới tính, giờ thì lộn lèo. Xưa, đặt tên theo vần tên cha mẹ, theo dòng nòi, giống. Nhà khó nuôi con, phải đặt tên con cho xấu, để khỏi quỉ ghẹo, ma trêu, như tên thằng buồi, cái đĩ, cái sắn, thằng khoai... 

Ngày nay thiên hạ  đua nhau đặt những cái tên thật kêu, thật oách nghe là lạ.  Thậm chí đặt cái tên dở tây, dở tàu, chỉ mong khác người. Rồi thì tranh nhau đặt tên của những người đẹp, nổi tiếng như Mỹ này, Hồng nọ,  Gia kia. Những là Aí Mỹ, Bảo Xuân… thôi thì đủ thứ. Ngày xưa các cụ dạy “ lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống “. Nay thì đẹp chẳng cần phải từ giống nòi, tông, giống. Tài năng chẳng cần luyện rèn…  Miễn  cứ ước mong tên lạ sẽ đẹp, hát sẽ hay, sẽ cho giàu tiền lắm của, rồi tiếm đất xây biệt phủ, không phải nuôi lợn, chạy xe ôm, bán chổi đót… mà vẫn giàu!

Mong là mong vậy, nhưng cũng có người toại nguyện, người không. Nòi nào giống nấy, cũng như thầy tu thì mặc áo tu. Nhưng cái áo không làm nên thầy tu là vậy ! 

Mà cũng lạ, cái tên thằng Tham, con Nhũng, là nguyên cớ nhanh giàu, mà sao cũng ít người đặt 

Trộm nghĩ: Mỗi cái tên cha mẹ đặt ra dù hay, bay bướm, hoạc trần trụi...  đều mang ý nghĩa, sự gửi gắm của người thân yêu mình. Còn thiên hạ có cái để gọi, để phân biệt, để kính trọng hay để khinh bỉ, nguyền rủa...Tùy ở tình cảm mỗi con người. 

Cứ như tên Trạch Văn Đoành có nổ, cũng chẳng làm ai sợ. Tên Huệ, Bích, Hồng, Hương... nếu tâm ác cũng chẳng tạo nên vẻ đẹp. Xấu ma chê quỉ hờn như thị Nở, khi yêu, anh Chí cũng thấy đẹp đến rạng ngời! Bởi vậy, tạo được vẻ đẹp chủ yếu nhất vẫn là cái tâm.

Người Việt ta duy tình. Trăm lý không bằng tí tình. Máu chảy ruột mềm.Tình cảm có khi còn trên cả lý trí.  Phải chăng, bởi do từ nền giáo dục, truyền thống và bản chất gia đình, mà ta thường nặng tình, nặng gánh con cái. Quý tình nghĩa hơn cả chức quyền, tiền bạc và luôn nhắc truyền thống cho con cháu học tập, làm theo gương ông cha Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Yêu quý thương yêu các con hơn cả cuộc đời mình. Thương yêu chúng mê muội đến mức như “cá chuối đắm đuối vì con”. 

Bởi lẽ: có yêu thương, quý trọng gia đình thì mới biết yêu thương quý trọng người ngoài xã hội. Âu cũng là nhân quả vậy !

Nhân khi đang giản cách mùa Cô vít, nhàn đàm, ngẫm tý cho khuây.

Bạn Fay ai vào đọc, đồng cảm thì Thanhkiu, không ưng thì cho qua, xin đừng gạch đá! 

10/10/2021

Suy nghĩ về tổ chức KHỞI CÔNG XÂY DỰNG MỚI NHÀ THỜ ÔNG VŨ- Đình-TƯƠNG, THẦN HOÀNG LÀNG TỐ PHÁC

 







Nhận được điện mời về dự lễ động thổ, làm mới nhà thờ ông Vũ Đình Tương, Thủy tổ họ Vũ, nhưng cũng là Thành Hoàng của làng Tố Phác.

Thật là vui và mừng lắm.

Mừng vui vì con cháu hậu duệ của ông Tổ đã trưởng thành, có tâm huyết. Người có trách nhiệm biết chăm lo từ mộ phần, xây nơi thờ tự Cụ Tổ, đến lo cho cuộc sống thực tế của dân làng, dòng họ.

Người ở nơi xa thì quan tâm. Có điều kiện thì góp ý, góp kinh nghiệm. Kể cả đóng góp kình phí, góp phần vào xây dựng công trình tâm linh, đạo hiếu của làng. 

Vui vì mong ước của cả làng, trong đó con cháu họ Vũ được thực hiện.

Từ nay con cháu họ Vũ sẽ có nơi khang trang để hương khói, tri ân tổ tiên. 

Dân làng có nơi khang trang, thắp nén tâm nhang, tri ân Thành Hoàng làng- Người khai thiên lập địa, cho lòng mỗi người thanh thản, vì mình đã sống biết ân nghĩa, có đạo hiếu. Để rồi cùng đoàn kết, chung tay làm giàu cho quê hương, xây dựng làng văn hóa, thôn văn hóa mới, làm gương sáng cho con cháu noi theo.

Làng nhỏ, hơn trăm hộ, chỉ mấy trăm khẩu, chưa giàu có, lại vừa trải qua dịch Cô vít, nhiều hộ kinh tế còn khó khăn. Nhưng việc hiếu đễ, dân làng đã quyết định thì là quyết tâm lắm.

Bên cạnh niềm vui, nỗi mừng đó, tôi cứ băn khoăn khi việc hệ trọng mà làng vắng nhiều và để lại nhiều dư luận.

 -Một số dân làng không đồng tình với cách làm. Cho rằng có sự phân biệt, cho đây là việc của họ Vũ. Không phải việc của Làng, mặc dù Làng chung một Thành Hoàng. Nên chỉ có một số trai, gái, râu, rể… hậu duệ họ Vũ đại diện. 

“Chúng tôi vẫn biết: Họ có những việc thuộc riêng nội bộ của Họ và phải là người đủ thẩm quyền triệu tập họp Họ và Họ quyết định. Nhưng cũng có việc của Họ, cũng chính là việc của Làng, thì phối hợp cùng trưởng Làng để cả làng giải quyết. Trong khi một cụm dân cư, một Thôn có thể có một hay 2-3 Làng, trong đó có thể có nhiều dòng Họ sinh sống. Nhưng mỗi vùng đất to, nhỏ đều có thổ địa riêng cai quản. “Đất có thổ công. Sông có hà bá”. Nhất là đất đó do khai phá của một người cụ thể, đã được phong Thành Hoàng.

Bởi vậy, việc làm nơi thờ cúng, tri ân sẽ là trách nhiệm chung của Làng, của mỗi hộ dân cư ngụ trên đất đó. Chứ không phải là riêng của một dòng họ nữa và càng không phải là việc của người không phải vai trách nhiệm, mặc dù họ có tiền hoặc có quyền. Mà có tiền, quyền họ cũng có cho không Làng, cho không Họ đâu? Của dân, của Họ đóng góp cả. Được tiếng được miếng cả…”

Tôi hỏi: “ Nghe nhà thầu cho nợ tiền 2 hay 3 vụ phải không? “

-Khi dân trí thấp. Nghèo được cho nợ là khoái rồi. Mà tiền chịu, không phải là tiền và không phải trả ư? Phải làm cấp bách đến thế ư? Sau dịch Cô vít. Bao người muốn xin được làm! Sao không đấu thầu, rẻ được đồng nào, đỡ cho dân đồng ấy…”. 

Người ủng hộ thì nói “Dân làng tán thành làm, chỉ băn khoăn về việc không được dự bàn, cách thức tổ chức thực hiện không bàn kỹ. Ba người đã là Gia Cát Lượng, tránh được sai xót. Nhất là việc liên quan đến sự yên ổn đến phát triển hay suy vong sau này của cả Làng cả họ. Vì “ăn có mời. Làm có mượn”. Việc Họ, việc Làng, dù muốn tham gia bàn, dù là có quyền lợi, cũng phải được người có thẩm quyền đồng ý. 

Ôi ! Đấy chỉ là dư luận. Nhưng dư luận thế gian như làn sóng biển, kẻ nào coi thường sẽ bị sóng cuốn trôi. 

Thiển nghĩ: Dòng họ chỉ là phạm vi hẹp. Làng, xã, đất nước mới là rộng lớn. Bách tính, trăm họ, sống cùng chung mảnh đất hình chữ S, lại chung một mẹ Âu Cơ, một cha Lạc Long quân… mới tạo nên sức mạnh trường tồn của dân tộc Việt. Sáu mươi ba dân tộc, trăm họ một nhà, không phân biệt đối xử thì mới tạo nên sức mạnh Việt Nam. 

Người lãnh đạo, dù to nhỏ phải biết được điều đó.

***

Gặp gỡ anh em, con cháu trong họ, cũng như một số người trong làng. Hỏi chuyện một vài Đảng viên cao tuổi Đảng, một số cán bộ CCB; một vài người hiện đang công tác ở thôn, xã. Một cụ tôi gọi là anh, tuổi nay ngoài 80 khi được hỏi, nôm na anh nói:

-Cuộc họp hôm đó thằng T và thằng K chủ trì. Không phải là người Trưởng chi nào cả. Cũng không phải là họp làng…

Người ủng hộ thì rõ quan điểm:

-Với con cháu họ Vũ, xây nhà thờ Tổ, vừa là trách nhiệm, là đạo lý, vừa là mong ước. Ai đứng ra làm cũng được, nhưng phải công khai dân chủ, thống nhất cách làm 

-Đối với dân làng, dù khác họ, nhưng có người đã mang họ Vũ từ lâu. Cũng có người là mối quan hệ thắm thiết, như sui gia, láng giềng và cùng chung sự quản lý của một chính quyền, sự lãnh đạo của một Cấp ủy. Nhưng cơ bản, họ đang an cư, lập nghiệp trong cùng mảnh đất văn hóa Tố Phác, cùng chịu hàm ơn một Thành Hoàng. Nơi đây chính là Làng của họ, họ đang đoàn kết, bình đẳng không phân biệt, để cùng nhau xây dựng làng văn hóa Tố Phác, Thôn Tố Lai, trong xã nông thôn mới nâng cao. 

Đây cũng là trách nhiệm, là văn hóa, là cái “tâm tri ân, uống nước nhớ nguồn”, trong đạo hiếu nhân văn của người Việt Nam. Chứ không để mang tiếng là kẻ ăn nhờ ở đậu, vô ơn. Cùng chăm lo xây dựng nhà thờ, hội nhập với cộng đồng, chúng tôi thấy lòng mình thanh thản và đó cũng chính là nền tảng xây dựng sự đoàn kết thống nhất, một trong tiêu chí cơ bản của một làng văn hóa. Do đó họp Làng để cùng bàn cùng làm là đúng nhất.

Mặt khác, khi dân cả làng cùng chăm lo, thì sức mạnh tăng lên. Đối tượng tham gia tăng, không phải phân biệt. Cả làng. “Xúm xít như dết nhiều chân”, nhiều người chia sẻ, thì gánh nặng đóng góp giảm đi. Cũng như là nhiều cây chụm lại nên rừng vậy”!

Suy nghĩ đó, theo tôi là rất đúng

Tôi hỏi chú là Đảng viên cao tuổi Đảng trong họ 

- Ta làm có báo cáo tổ chức không chú?

- Việc của Họ là do trong Họ họp bàn quyết định. Liên quan tới Làng thì phối hợp cùng trưởng Làng để thống nhất. Dù chung một Cấp ủy, cùng trong một Thôn, nhưng là việc của Họ, của Làng. Chi bộ không ra Nghị quyết làm thay. Nhưng với Họ, trước khi làm phải báo cáo, để Chi ủy Chi bộ ra Nghị quyết Lãnh đạo, phân công Đảng viên là người trong Họ, trong Làng, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất. Bởi việc của Họ, nhưng liên quan đến đóng góp, đến sức mạnh đoàn kết của dân Làng. Yêu cầu đại diện Họ và Làng, phối hợp cùng tổ chức cho dân Làng đi họp đông đủ, bàn kỷ thông suốt. 

-Chi Bộ không ra Nghị quyết sai thẩm quyền, không Nghị quyết làm nhà thờ cho Họ Vũ…Nhưng yêu cầu dòng Họ, con cháu họ Vũ phải gương mẫu, làm nòng cốt cho dân làng. Mọi vướng mắc, trong Họ tự giải quyết. Nhất là trong tự nguyện đóng góp. Tránh áp đặt, bàn chưa kỹ mà đã quyết định. Họ hay Làng cũng là dân. Dân chưa thông, việc thu đóng góp sau này sẽ khó khăn. 

Là công trình tâm linh của cả làng cả họ, nên phải hết sức cẩn thận. Công khai quy mô, hình thức. Thiết kế kiểu dáng, hướng nhà, thế đất. Tổng dự toán công trình. Cách thức huy động vốn. Chọn đơn vì thi công bằng đấu thầu hay quyết định chỉ định thầu, để có chi phí thấp nhất, giảm sự đóng góp của dân?

Đây là suy nghĩ tích cực, đúng nguyên tắc, đúng cơ chế lãnh đạo, chặt chẽ cụ thể. Đó cũng chính là những yêu cầu mà những người có trách nhiệm phải được triển khai đến người dân. Làm được vậy, sẽ đảm bảo đoàn kết thống nhất, tránh được dị nghị.

Qua những dư luận trên, và qua việc làm thực tế, thiết nghĩ cả về phía Họ và Làng cần phải rút kinh nghiệm. Nhất là về tôn ty kỷ cương trong dòng Họ, kết hợp với việc Làng xã và trong tổ chức thực hiện.

Đã là việc Họ phải là người trong họ được phân công, hoặc do Trưởng Họ điều hành. Đã là Trưởng họ, có hèn mọn vẫn là anh, là trưởng, không thể lấy em, lấy cháu, hay người khác có năng lực hơn để thay thế, mà chưa được ủy quyền.

Thứ hai, dù là người trong chi trưởng, nhưng chỉ là hàng cháu chắt, khi các Cụ các ông bề trên thuộc hàng ông, cha đang còn sống, thì cũng không được tiếm quyền, để tùy tiện quyết định, vượt quyền các Cụ. Ngày nay mọi sự đã khác. Nhưng bài học xưa, vua chúa phế trưởng, lập thứ là tai họa, mà lịch sử đã minh chứng. 

Với các Cụ, dù tuổi cao sức yếu, nhưng trách nhiệm vẫn phải chủ trì triệu tập họp để bàn và kết luận. Nhưng đến việc làm, sẽ ủy nhiệm, giao cho con cháu làm. Không được viện lý do để lẫn tránh trách nhiệm. Đất nước xưa có Vua đã trưởng thành, vẫn có hội nghị Diên Hồng là vậy. 

Ngược lại, có người dù là bậc cha chú, việc chưa bàn kỷ, cũng không chống lưng cho con cháu làm sai kỷ cương dòng họ. 

Cuộc họp họ, do trưởng họ điều hành. Còn cuộc họp của Làng phải do Trưởng làng điều hành. Cuộc họp của Làng, không thể thay thế cuộc họp Họ và ngược lại. Khi cần thì đồng chủ trì. Còn không, đây chỉ là việc của hai cá nhân, thỏa thuận làm với nhau. Đúng sai, tiết kiệm hay lãng phí… cả Làng hay cả Họ, không chịu trách nhiệm, kể cả trong việc làm và cả trong đóng góp.

Nay việc đã vậy, thiết nghĩ cũng do sự kém hiểu biết. Nhưng cái tâm là trách nhiệm với tổ tiên, và việc xây dựng nhà thờ cũng được đa số ủng hộ. Có gì chưa chu đáo cần rút kinh nghiệm. Nhưng cơ bản là phải cầu thị và khiêm tốn lắng nghe, khắc phục, không biện luận, lấp liếm.

Trước mắt, cần làm thông tư tưởng với dân làng, dòng họ, để mọi người ủng hộ. Tập trung thi công, cho công trình sớm được thành công. 

Khi làm thì dân phấn khởi. Ngày khánh thành, cả làng hân hoan, càng thêm đoàn kết, gắn bó.

***

Công trình nhà thờ Tổ, Thành Hoàng làng Tố Phác là việc tâm linh, là việc làm đạo lý của con cháu và dân làng.

Mong rằng mọi việc hanh thông, đảm bảo chất lượng, tiến độ. Nhưng không làm ẩu, vội vàng.

Dân làng đã đoàn kết trong việc làm. Xây xong công trình, dân làng, dòng họ càng đoàn kết, yêu thương gắn bó nhau hơn. Để Tố Phác mãi trường tồn, giàu đẹp và văn minh!

24/5/2023